Trích đoạn truyện ngắn “Trăng soi sân nhỏ” của nhà văn Ma Văn Kháng:

“Chiều đầu hạ. Tiết xuân còn lưu luyến trong hơi sương phơn phớt tím dâng lên từ mặt đất ngập ngừng, cùng với khí núi từ dãy sơn mạch hùng vĩ phía trái tỏa ra, tạo nên một cảm hứng giao thoa, vừa hoang dã cô liêu vừa tràn đầy sôi động. Gió lướt thướt như xiêm áo những linh hồn trinh nữ trong vũ điệu yêu đương. Cảnh đìu hiu và thanh tịnh. Đang trong lúc chuyển giao thời gian giữa mặt trời hồng chấm hết chu kỳ chiếu sáng và mặt trăng vành vạnh tươi vàng lặng lẽ nhô lên sau dãy đồi trập trùng thoai thoải miền bán sơn địa.

Trăng lên, tròn đầy, bồng xốp, không một vang vọng. Không gian như căn buồng vừa mở toang bốn phía cửa, thênh thang ba chiều. Mặt đất đã có tuổi đời ngàn vạn năm, từ những kỳ địa chất xa xôi đang thở mùi già lão lúc chiều tàn bỗng hồng dâng lên niềm hân hoan thiếu nữ tuổi yêu đương. Bị đẩy ra xa, rặng núi đá cất lên chân trời những đường nét sắc ngọt. Dưới nó, điệp điệp đồi đất, xếp thành những bậc thang dẫn lối xuống một thung lũng dài hình lá lúa, có con đường mòn lắt lẻo, xuyên qua những vạt rừng bạch đàn lá liễu xanh mờ và những vệt hoa rừng dại vàng rực chóe sắc nắng, sản phẩm của một trí tưởng tượng phi thường.

Nam có cảm giác bị lạc lối trong một chiêm bao lạ. Thế giới như một tổng thể năng lượng không thể đo được và không bao giờ hao cạn. Nhận ra điều đó, Nam đồng thời thông hội được với nỗi buồn thê thiết về sự lãng quên của nhân thế, tình trạng gián đoạn của lịch sử, khi dừng lại trước phế tích của một tòa thành cổ. Đập vào mắt anh là hình khối chiếc cổng tam quan sừng sững uy nghi trổ ba vòm cửa, ghép bằng những phiến đá hình thoi nêm, đang hun hút gió về. Tòa thành kỳ vĩ này chỉ còn lại cái cổng lớn và đứng dưới chân nó, đưa mắt sang tả, hữu, Nam có thể nhìn thấy một vòng cung ngấp nhô cả ngàn phiến đá vuông thành, đang thầm thì khúc ca về sự bất tử của chất liệu.

Cảnh vật gây niềm xao xuyến. Nam đang hướng tới sự đồng nhất nhất thân mình với một bản thể cao siêu và trừu tượng. Trào nước mắt, anh nhìn thấy lẫn trong cây cỏ hoang vu trên những eo đồi, gò đất, những bệ thờ, tam cấp, những bờ đá chạm trổ long ly quy phượng, những khối hình ngựa đá, voi đá, nghê đá và những khúc rồng đá uốn mình, giương vi, nặng nhọc đang cố cất mình khỏi vô tri buồn tẻ và sao nhãng cố tình.

Bất giác Nam bỏ con đường mòn, bỏ cả Bân, đạp chân lên thềm cỏ hoang, leo qua một bậc tam cấp, bước lên một tầng nền cung điện đã sụt lở ngả nghiêng. Anh nhận được ngọn gió từ ngàn xưa rền rĩ bay về. Một thời đại đã dừng chân ở nơi đây, đã rực rỡ phát sáng, đã sụp đổ hoang tàn.

Cảm giác hụt hẫng, cô đơn chế ngự Nam. Nam phóng tầm mắt ra xa để tìm chỗ nương tựa. Trong ánh trăng rười rượi vàng đến não lòng là những thôn xóm kết tụ từng vùng xanh như những cụm khói đặc. Ôi, những trang trại, nơi tá túc của những người lính trận thuở lập quốc, đã dẹp xong giặc ngoài, nay trở về với công việc cày cuốc. Họ đang vỡ đất, gây rừng, nuôi lợn, trồng chè, trồng thuốc lào. Bỗng nhiên Nam thấy mình như một hình nhân không có thật đang bơ vơ giữa hư ảo dật dờ.”

Nếu bạn cảm thấy bài viết này hữu ích, bạn có thể ủng hộ tác giả qua chương trình Bạn đồng hành hoặc tại đây.

Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Cũ nhất
Mới nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Bình luận để cảm ơn hoặc chia sẻ ý kiến của bạnx